Tin tức >> Kinh tế trong nước có liên quan

Tìm giải pháp thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong bối cảnh kinh tế thế giới còn bất ổn

13/03/2023

Cần sử dụng các giải pháp về ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, tháo gỡ khó khăn về vốn nhằm tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp (DN) khu vực chế biến, chế tạo có thêm nguồn lực phục hồi sản xuất kinh doanh, vượt qua giai đoạn khó khăn.

 

 

2 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 6,3% so với cùng kỳ
Theo số liệu của Bộ Công Thương, trong 2 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm 6,3% so với cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giảm khoảng 13% trong đó xuất khẩu ước đạt 49,45 tỷ USD, giảm 10,4%; nhập khẩu ước đạt 46,6 tỷ USD, giảm 16%. Tuy nhiên, cán cân thương mại tiếp tục ở mức xuất siêu 2,82 tỷ USD.
Nguyên nhân suy giảm sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu
Theo phân tích của Bộ Công Thương, nguyên nhân chính của sự suy giảm sản xuất công nghiệp và xuất nhập khẩu đến từ cả yếu tố bên trong và bên ngoài. Đó là cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột tại Ukraine khiến giá nhiên liệu đầu vào, năng lượng và logistics toàn cầu vẫn ở mức cao… đã tác động đến chi phí sản xuất của DN trong nước. Lạm phát cũng ở mức cao, chính sách tiền tệ vẫn chưa nới lỏng, xu hướng thắt chặt chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ tại một số thị trường tiêu thụ dệt may, da giày, đồ gỗ, linh kiện điện tử lớn như Hoa Kỳ, EU khiến nhu cầu nhập khẩu giảm. Ngoài ra, các yếu tố bên trong như sức mua trong nước dù đã khôi phục nhưng vẫn còn yếu, chưa kích thích sản xuất, đầu tư và tiêu dùng, hoạt động mua hàng trở lại giảm. Bên cạnh đó, vẫn còn thiếu sự hỗ trợ giữa thị trường nội địa và các ngành sản xuất hay liên kết giữa thị trường nội địa và khu vực sản xuất yếu. Các DN vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận vốn, lãi suất ngân hàng và chi phí đầu vào nguyên vật liệu vẫn ở mức cao, đặc biệt là các DN trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đang ở trong bối cảnh khó khăn do thiếu đơn hàng, khả năng hấp thụ vốn đã bắt đầu giảm. Sức ép lạm phát, lãi suất gia tăng cũng đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc tiêu dùng các sản phẩm xa xỉ như ô tô. Thị trường ô tô trong 2 tháng đầu năm 2023 sụt giảm mạnh so với cùng kỳ các năm do lãi suất vay tiêu dùng cao khiến người dân không bảo đảm nguồn tài chính mua trả góp.
Mặt khác, thói quen tiêu dùng trong thời kỳ COVID-19 của một bộ phận người dân vẫn được duy trì đến thời điểm hiện tại, người lao động mất việc làm. Theo đó, người dân có xu hướng thắt chặt chi tiêu, tiết kiệm để tiêu dùng các sản phẩm thiết yếu hơn là các sản phẩm xa xỉ, kể cả sản phẩm thông thường như dệt may, giày dép. Nhu cầu tiêu dùng đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng may mặc, đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình cũng giảm nhiều do người dân chủ yếu tập trung mua sắm các mặt hàng này trong giai đoạn trước Tết.
Bộ Công Thương nhận định, trong thời gian tới sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức do kinh tế thế giới đang ở giai đoạn khó khăn, hồi phục chậm, tổng cầu giảm. Lạm phát và lãi suất vẫn duy trì ở mức cao khiến nhu cầu tiêu dùng tiếp tục giảm tại các quốc gia trên thế giới trong đó có khu vực châu Âu –­­ châu Mỹ. Xung đột Nga – Ukraine tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực và rất khó đoán định khiến đầu tư giảm và gián đoạn, niềm tin của DN và nhu cầu tiêu dùng trên toàn cầu giảm, tạo thêm khó khăn cho hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc Trung Quốc mở cửa trở lại cộng với việc một số địa bàn xuất khẩu trọng điểm nới lỏng các biện pháp hạn chế thương mại đối với Trung Quốc làm gia tăng sự cạnh tranh trên các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.
Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
Để vượt qua những thách thức trên, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cho biết trong thời gian tới Bộ sẽ tập trung mọi giải pháp phát triển mạnh mẽ thị trường nội địa, thông qua các Chương trình xúc tiến thương mại thị trường trong nước, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử để mở rộng tiêu dùng nội địa. Tổ chức đẩy mạnh triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các Chương trình, đề án về phát triển thương mại trong nước. Đổi mới phương thức, lồng ghép các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển thị trường trong nước vào các chương trình kích cầu tiêu dùng. Hỗ trợ các DN trong hoạt động xúc tiến thương mại; xây dựng, bảo vệ thương hiệu cho các chuỗi phân phối bán buôn, bán lẻ trong nước; quảng bá các đặc sản vùng miền, sản phẩm tiêu biểu của Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước bằng việc rà soát các tồn đọng ở các dự án công nghiệp lớn có vai trò quan trọng, tháo gỡ khó khăn để sớm đi vào vận hành các công trình dự án trọng điểm, có vai trò quan trọng trong lĩnh vực điện, dầu khí, công nghiệp chế biến, chế tạo, khoáng sản... nhằm gia tăng năng lực sản xuất mới và tạo chủ động nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu, phát triển bền vững sản xuất.
Tuy nhiên, để thực hiện được các giải pháp trên, nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên kiến nghị Chính phủ sớm phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản để sớm đưa vào khai thác, sử dụng, tạo nguồn động lực tăng trưởng mới, bảo đảm tự chủ một phần nguồn cung nguyên liệu cho các ngành luyện kim, vật liệu trong nước. Đồng thời sớm phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (Quy hoạch điện 8), ngoài việc phát triển điện lực còn giúp tạo dựng thị trường cho các ngành cơ khí năng lượng (như chế tạo các thiết bị điện gió, điện mặt trời, điện khí…) phát triển mạnh trong thời gian tới. Để tăng cường sức mua nhằm phục hồi thị trường ô tô, duy trì và thúc đẩy hoạt động sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, trên cơ sở đề xuất của các DN trong ngành và một số địa phương, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị Chính phủ xem xét, chỉ đạo Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước phối hợp nghiên cứu, tiếp tục trình ban hành một số chính sách hỗ trợ về tài chính cho ngành như chính sách gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong năm 2023, chính sách ưu đãi lệ phí trước bạ cho ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong thời hạn nhất định (06 tháng hoặc đến hết năm 2023).
Bên cạnh đó, Chính phủ chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước có chính sách điều hành tín dụng sao cho nguồn vốn tín dụng chảy vào khu vực sản xuất và xuất khẩu, đặc biệt là khu vực chế biến, chế tạo để tiếp sức cho DN. Xem xét điều chỉnh lãi suất cho vay đối với sản xuất và tiêu dùng để kích thích nhu cầu mua sắm của người dân. Đối với các địa phương, người đứng đầu Bộ Công Thương cũng đề nghị phối hợp với các Bộ, ngành đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu.
Nâng cao giá trị hàng hóa xuất khẩu
Nâng cao giá trị hàng xuất khẩu cũng là bài toán chung với nhiều ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam khi biên độ lợi nhuận từ xuất khẩu vẫn ở mức thấp. Thách thức để đạt mục tiêu xuất khẩu năm nay (gần 394 tỷ USD) sẽ khó khăn hơn. Vì vậy các DN vừa phải tìm kiếm, duy trì đơn hàng vừa phải nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu, tận dụng các ưu đãi của các Hiệp định thương mại tự do để nâng cao sức cạnh tranh. Thay vì phải tốn từ 16 – 17 container xuất khẩu quả tươi sang châu Âu, Hàn Quốc, Nhật Bản, DN chỉ cần 1 container nước quả chế biến với giá trị tương đương, thậm chí là cao hơn so với kỳ vọng. Với 80% thị phần xuất khẩu là mặt hàng chế biến, DN này đang có lợi thế lớn để cạnh tranh. “Đối với mảng chế biến, khi xuất khẩu, chúng ta sẽ qua được rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu về kiểm dịch thực vật. Sản phẩm khi chế biến sâu rất tiện lợi cho người tiêu dùng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Kết tinh giá trị xuất khẩu của sản phẩm cao hơn xuất khẩu của quả tươi rất nhiều”, ông Phạm Ngọc Thành, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao, cho biết.
Còn với những ngành hàng công nghiệp chế biến chế tạo như da giày, dệt may…, các DN cũng đứng trước những thách thức về yêu cầu sản xuất bền vững. Những DN gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất, hay sản phẩm không có yếu tố “xanh” sẽ có nguy cơ bị ngừng tiếp nhận đơn hàng hoặc bị từ chối đặt hàng. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nhu cầu các thị trường lớn châu Âu, Trung Quốc và Hoa Kỳ tăng trở lại, cơ hội xuất khẩu là rất lớn, nhưng kèm theo sức cạnh tranh, các tiêu chuẩn kỹ thuật, việc rà soát của các thị trường cao hơn. Do vậy, đảm bảo thực thi các tiêu chuẩn trong các hiệp định thương mại tự do sẽ là cơ hội cho DN Việt.
“Chúng ta có hiệp định thương mại tự do và các thuế đối với sản phẩm chế biến cũng cơ bản được loại bỏ 0% hoặc đang giảm rất nhanh theo lộ trình. Chính vì thế đây là khu vực mang lại lợi thế của xuất khẩu Việt Nam”, bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), nhận định. Theo Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường có hiệp định thương mại tự do mới chỉ chiếm khoảng 2% trong tổng kịp ngạch nhập khẩu của các trường này. Trong đó, hơn 1/3 lượng hàng hóa mới tận dụng được ưu đãi hưởng thuế và xuất xứ hàng hóa. Do vậy, còn nhiều dư địa để DN Việt Nam chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nâng cao hàm lượng giá trị sang các thị trường tiềm năng.
Theo Bộ Công Thương, diễn biến của thị trường thế giới còn nhiều bất định do lạm phát, cạnh tranh tăng cao, nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh gặp nhiều khó khăn, đơn hàng giảm mạnh. Các mặt hàng nông, lâm, thủy sản của Việt Nam phần nhiều vẫn xuất khẩu sản phẩm thô, qua đường tiểu ngạch và đang chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực ASEAN, châu Á. Để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu trong năm nay, các DN cần tiếp tục bám sát thị trường và chủ động các phương án linh hoạt với cả thị trường ngách và thị trường truyền thống, phát triển thương hiệu của sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch.


Quay về

THÔNG TIN LIÊN QUAN

Xem tất cả >>