Ngày 04/5/2022, Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (FED) nâng lãi suất tham chiếu thêm 0,5% – mạnh nhất 22 năm. Hồi tháng 3, cơ quan này nâng lãi thêm 0,25% – lần đầu tiên kể từ cuối năm 2018.
Người Mỹ sẽ cảm nhận rõ tác động của sự thay đổi này. Họ sẽ không còn được vay lãi suất cực thấp khi mua nhà hay mua xe nữa. Tiền tiết kiệm trong các tài khoản ngân hàng cũng sẽ sinh lời thêm một chút. “Tiền không còn miễn phí nữa”, ông Joe Brusuelas – Nhà kinh tế trưởng tại hãng tư vấn RSM US cho biết.
Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ Jerome Powell.
Ảnh: Reuters
Khi đại dịch xuất hiện, FED gần như hạ lãi suất về 0% để khuyến khích người dân chi tiêu và doanh nghiệp đầu tư. Để hỗ trợ nhiều hơn nữa cho nền kinh tế, FED đã tung hàng nghìn tỷ USD ra thị trường. Khi các thị trường tín dụng đóng băng hồi tháng 3/2020, FED còn đưa ra các công cụ tín dụng khẩn cấp. Các chính sách giải cứu của FED đã phát huy tác dụng. Không có cuộc khủng hoảng tài chính nào diễn ra vì COVID-19. Vaccine và các khoản chi khổng lồ của Quốc hội Hoa Kỳ đã mở đường cho đà phục hồi nhanh chóng. Tuy nhiên, việc các chính sách được tung ra khẩn cấp, nhưng mãi chưa được gỡ bỏ, đã khiến nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Tỷ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ đang thấp nhất 50 năm, nhưng lạm phát lại rất cao. Kinh tế Hoa Kỳ vì thế không còn cần nhiều hỗ trợ từ FED nữa.
Chi phí đi vay tăng
Lãi suất tham chiếu của FED áp dụng cho các khoản vay qua đêm liên ngân hàng. Dù đây không phải mức lãi mà người tiêu dùng phải trả, động thái của FED vẫn có thể ảnh hưởng đến lãi suất cho vay và tiết kiệm mà họ tiếp xúc hàng ngày. Mỗi lần FED nâng lãi suất, việc đi vay sẽ đắt đỏ hơn. Điều này đồng nghĩa mọi khoản vay, từ mua nhà, mua xe, thẻ tín dụng, vay nộp học phí sẽ tốn kém hơn. Chi phí đi vay với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng cao lên. Lãi suất tăng lên sẽ khiến việc mua nhà khó khăn hơn. Giá nhà tại Hoa Kỳ đã tăng chóng mặt trong đại dịch. Nhu cầu yếu đi có thể hạ nhiệt thị trường bất động sản nước này. Giá nhà trung bình tại Hoa Kỳ hồi tháng 3 tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái, lên 375.000 USD, theo Hiệp hội Bất động sản Quốc gia Hoa Kỳ.
Lãi suất có thể tăng đến mức nào?
Nhà đầu tư kỳ vọng FED nâng lãi suất lên ít nhất 3% vào cuối năm nay. FED từng tăng lãi suất lên 2,37% trong đợt nâng lãi gần nhất vào cuối năm 2018. Trước khủng hoảng tài chính 2007 – 2009, lãi suất này còn lên tới 5%. Tuy nhiên, tác động lên lãi suất cho vay những tháng tới còn phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng lãi của FED. Mà việc này vẫn còn chưa được quyết định.
Tin tốt cho người gửi tiết kiệm
Lãi suất thấp không có lợi cho người gửi tiền. Việc FED duy trì lãi suất gần 0% suốt 2 năm khiến người gửi tiết kiệm gần như chẳng kiếm được gì. Nếu trừ đi lạm phát, họ thậm chí còn lỗ. Tuy nhiên, tin tốt là lãi suất tiết kiệm sẽ tăng khi FED nâng lãi tham chiếu. Người gửi tiền cuối cùng cũng có tiền lãi. Nhưng việc này cần thời gian. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt là với các ngân hàng lớn, tác động sẽ khó mà thấy qua một đêm. Và kể cả khi các nhà băng nâng lãi theo, lãi suất tiết kiệm cũng vẫn rất thấp, thấp hơn lạm phát và lợi nhuận trên thị trường chứng khoán.
Các thị trường sẽ phải điều chỉnh theo
Lãi suất thấp có lợi cho thị trường chứng khoán, do nó buộc nhà đầu tư đặt cược vào tài sản rủi ro, như cổ phiếu. Tuy nhiên, lãi suất cao cũng là thách thức với thị trường chứng khoán, vốn đã quá quen thuộc – nếu không muốn nói là nghiện – tiền rẻ. Các thị trường gần đây biến động lớn do lo ngại về kế hoạch chống lạm phát của FED. Tuy nhiên, phần lớn tác động này sẽ phụ thuộc vào việc FED nâng lãi nhanh đến mức nào, và các yếu tố kinh tế nền tảng, lợi nhuận doanh nghiệp biến động ra sao sau đó. Tối thiểu thì việc nâng lãi cũng đồng nghĩa thị trường chứng khoán sẽ phải cạnh tranh nhiều hơn với trái phiếu chính phủ.
Lạm phát liệu có hạ nhiệt?
Mục tiêu của FED khi nâng lãi suất là kiểm soát lạm phát, nhưng vẫn phải giữ đà phục hồi cho thị trường lao động. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đã tăng 8,5% trong tháng 3 so với năm trước đó. Đây là tốc độ nhanh nhất kể từ tháng 12/1981. Trong khi đó, mục tiêu lạm phát của FED chỉ là 2%. Các nhà kinh tế học cảnh báo lạm phát có thể còn tồi tệ hơn, do giá hàng hóa đã tăng vọt kể từ sau chiến dịch quân sự của Nga tại Ukraine. Mọi thứ từ thực phẩm, năng lượng đến kim loại đều trở nên đắt đỏ, dù giá dầu đã hạ nhiệt do các lệnh phong tỏa tại Trung Quốc.
Chi phí sinh hoạt cao đang khiến hàng triệu người Mỹ đau đầu, đẩy niềm tin tiêu dùng xuống thấp nhất thập kỷ. Dĩ nhiên, các chính sách của FED cần thời gian để phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như xung đột tại Ukraine, sự gián đoạn chuỗi cung ứng và cả COVID-19.
Tác động lên các nền kinh tế khác
Vệc FED nâng lãi suất không chỉ có tác động đến kinh tế nước này, mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước khác. Ví dụ, Hong Kong và các nước Vùng Vịnh – vốn neo nội tệ vào USD – đã nâng lãi suất ngay sau động thái của FED. Cơ quan Quản lý Tiền tệ Hong Kong (HKMA) hôm 4/5 nâng lãi suất cơ bản từ 0,75% lên 1,25%. Trong khi đó, Saudi Arabia, Các tiểu Vương quốc Arab thống nhất (UAE), Qatar và Bahrain nâng thêm 0,5%.
Bên cạnh đó, việc này còn gây sức ép lên các nền kinh tế đang phát triển. Tháng trước, Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva cảnh báo FED và các ngân hàng trung ương khác “suy nghĩ kỹ về rủi ro lan truyền với các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển dễ tổn thương”. Nguyên nhân là việc này có thể làm thay đổi dòng chảy đầu tư toàn cầu, khiến dòng vốn rời các nước nghèo để chảy sang Hoa Kỳ. Việc này sẽ kéo giá USD lên và đẩy giá các đồng tiền khác xuống. Để bảo vệ nội tệ, các nước này có thể cũng sẽ nâng lãi suất theo, gây ra hệ quả như kéo tụt tăng trưởng, xóa sổ nhiều việc làm và doanh nghiệp ngại đi vay. Các chính phủ mắc nợ cũng sẽ phải chi nhiều hơn cho việc trả nợ, từ đó ảnh hưởng đến ngân sách cho những việc như chống dịch hay xóa đói giảm nghèo.