Các chuyên gia phân tích tập trung vào châu Á và các thị trường mới nổi, cho rằng Hiệp định RCEP sẽ tạo ra các cơ hội thương mại mới giữa các nước châu Á và đẩy nhanh sự phục hồi kinh tế của khu vực. Ví dụ, hiệp định sẽ loại bỏ thuế quan đối với hơn 90% hàng hóa trong vòng 10 đến 15 năm tới và đưa ra các quy tắc về đầu tư và sở hữu trí tuệ để thúc đẩy thương mại tự do.
Thỏa thuận bao trùm khoảng 30% dân số thế giới, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu và thương mại trên toàn thế giới. Hiệp định RCEP lớn hơn Hiệp định thương mại Hoa Kỳ – Mexico – Canada, khu vực kinh tế châu Âu và Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Nhật Bản có khả năng sẽ hưởng lợi lớn vì RCEP lần đầu tiên trao cho nước này một hiệp định thương mại tự do với Trung Quốc và Hàn Quốc. Các công ty Nhật Bản sản xuất các sản phẩm điện và điện tử, máy móc, linh kiện ô tô và một số sản phẩm nông nghiệp và thực phẩm sẽ được hưởng các ưu đãi thuế quan đáng kể khi họ xuất khẩu sang Trung Quốc. Chính phủ Nhật Bản kỳ vọng hiệp định sẽ tăng GDP của nước này lên 2,7% và tạo ra khoảng 570.000 việc làm. RCEP cũng sẽ củng cố vai trò lãnh đạo kinh tế của Trung Quốc trong khu vực; và các mặt hàng xuất khẩu của nước này sang Nhật Bản – bao gồm máy móc, thiết bị điện tử, hàng dệt và quần áo – sẽ được hưởng lợi từ mức thuế thấp hoặc không. Các quốc gia tham gia vào khu thương mại tự do mới của RCEP là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và 10 quốc gia trong ASEAN – Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Ngoài ra, Hồng Kông (Trung Quốc) đã nộp đơn xin gia nhập và có một nỗ lực đang được tiến hành để thuyết phục Ấn Độ trở lại.
Chuyên gia Deborah Elms, Giám đốc điều hành của Trung tâm thương mại châu Á tại Singapore cho biết: RCEP là một thỏa thuận thương mại thiết lập thương mại ở châu Á. Tất nhiên, đã có rất nhiều thương mại ở châu Á nhưng không có nhiều sản phẩm cuối cùng kết thúc ở châu Á. Một trong những lý do là do thương mại trong khu vực, đặc biệt là đối với hàng thành phẩm, quá khó khăn, quá đắt, thuế quan áp dụng, các thách thức phi thuế quan…Mặc dù thừa nhận rằng RCEP không phải là một thỏa thuận hoàn hảo, nhưng mang lại nhiều khả năng các công ty sẽ tạo ra chuỗi cung ứng dựa trên châu Á cho thương mại châu Á.
Nhiều công ty đã thực hiện chính sách chuỗi cung ứng Trung Quốc cộng một, nghĩa là họ đang sản xuất ở Trung Quốc và các quốc gia khác để tạo ra chuỗi cung ứng mạnh mẽ hơn, linh hoạt hơn, đồng thời nếu các quốc gia “cộng một” của họ là RCEP các nước thành viên cũng có thể hưởng lợi từ FTA. Ngoài việc tiết kiệm thuế đáng kể, RCEP sẽ tiêu chuẩn hóa thương mại trong một khu vực trước đây phụ thuộc vào các FTA phức tạp và đa dạng, đòi hỏi nguồn lực đáng kể để quản lý và đưa ra các quy tắc xuất xứ và thủ tục chứng nhận khác nhau. Mặt khác, RCEP thay thế nhiều FTA bằng một hiệp định duy nhất và cung cấp các quy tắc xuất xứ chung cho tất cả các quốc gia thành viên, một giấy chứng nhận xuất xứ duy nhất, thông quan hàng hóa nhanh hơn qua cơ quan Hải quan và các quy tắc dành riêng cho sản phẩm sẽ được đồng bộ hóa với Hệ thống hài hòa của Tổ chức Hải quan Thế giới (HS).
Vượt qua chướng ngại vật
Mặc dù RCEP mang lại những lợi ích đáng kể, nhưng cũng có những nhược điểm phải kể đến, đó là: Một số thuế suất RCEP sẽ giảm dần theo thời gian – có thể là 20 năm – vì vậy các FTA hiện tại có thể có thuế suất tốt hơn trong ngắn hạn; Không phải tất cả các quốc gia RCEP đều sẵn sàng cho việc tự chứng nhận; có thể mất vài năm để thực hiện đầy đủ; Các yêu cầu bổ sung về quy tắc xuất xứ tồn tại trong một số mã HS; Trung Quốc và Hàn Quốc đặc biệt quyết đoán trong việc bắt đầu các cuộc kiểm toán, vì vậy điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nhất quán. Điều này đòi hỏi phải duy trì cẩn thận các tài liệu FTA làm bằng chứng cho việc đánh giá – đặc biệt khi sử dụng phương pháp tự chứng nhận. Thuế quan và dữ liệu liên quan đến FTA cần thiết để phân tích các kịch bản chuỗi cung ứng và tìm ra các lựa chọn tốt nhất thường không được đưa vào phần mềm hoạch định nguồn lực doanh nghiệp của các công ty và được quản lý theo cách thủ công trong các bảng tính. Mặt khác, với nền tảng phần mềm chuỗi cung ứng tự động, các chuyên gia thương mại của công ty có thể đánh giá tiềm năng tiết kiệm của RCEP, đảm bảo họ tuân thủ các quy tắc và quy định mới nhất ở mọi nơi hoạt động và đưa ra các quyết định hoạt động sáng suốt.
Do đó, các chuyên gia khuyến nghị các doanh nghiệp thực hiện quy trình gồm bốn bước: (i) Để tối ưu hóa thương mại thì lập bản đồ chuỗi cung ứng với câu hỏi đang sản xuất ở đâu? Xuất khẩu đến đâu? Các sản phẩm là gì? Phân loại HS nào? (ii) Để đánh giá FTA nào sẽ mang lại lợi ích tối đa một cách hiệu quả nhất, xác định FTA nào có sẵn, mức tiết kiệm mà mỗi FTA mang lại và có thể tối ưu hóa việc sử dụng chúng hay không. (iii) Xác nhận nguyên liệu thô có nguồn gốc và quy trình sản xuất đủ điều kiện cho các FTA. Điều này đòi hỏi phải thiết lập một quy trình để quản lý các FTA, kết nối với các nhà cung cấp để được hưởng ưu đãi FTA và Giấy chứng nhận xuất xứ, xác minh rằng sản phẩm đáp ứng các quy tắc xuất xứ và cân nhắc tự động hóa để tối đa hóa lợi ích trên tất cả các FTA. (iv) Triển khai một chiến lược tối ưu hóa thuế hiệu quả nhằm tận dụng các lợi ích của FTA và thích ứng khi chúng thay đổi. Một quy trình tự động có thể cho phép tìm nguồn cung ứng chiến lược, loại bỏ công việc thủ công lặp đi lặp lại, giảm thiểu rủi ro tuân thủ, tối đa hóa việc sử dụng FTA và tăng khả năng cạnh tranh về chi phí.