Nhộn nhịp tham gia vào thị trường “bán không khí lấy tiền”
Ô nhiễm không khí luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở các đô thị trên thế giới khi vấn đề này ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống con người. Tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon sẽ giúp quốc gia đạt được các mục tiêu giảm phát thải một cách hiệu quả về mặt chi phí. Đặc biệt sự tham gia của các doanh nghiệp không chỉ góp phần lớn vào công cuộc giảm thiểu lượng khí thải nhà kính, mà còn nâng cao hiệu quả sản xuất cho chính các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hóa ở nước ta, xử lý chất thải vẫn là vấn đề tồn đọng, chưa được xử lý dứt điểm dẫn đến nhiều hệ quả môi trường.Theo đó, việc cam kết Net Zero thúc đẩy nhu cầu giao dịch tín chỉ các-bon, tạo ra nguồn tài chính mới giúp huy động vốn cho các dự án xanh. Cơ chế thị trường này khuyến khích doanh nghiệp áp dụng các công nghệ phát thải các-bon thấp, thúc đẩy tăng trưởng xanh và tạo ra doanh thu từ giao dịch tín chỉ các-bon, phù hợp với các tiêu chuẩn bền vững toàn cầu. Trên thực tế, dù mới bắt đầu thương mại hóa tín chỉ các-bon khoảng 4 – 5 năm trở lại đây nhưng đến hiện nay, sự quan tâm của cộng đồng doanh nghiệp Việt đối với lĩnh vực “bán không khí lấy tiền” này đã khá sôi động.
.jpg)
Tham gia vào thị trường tín chỉ các-bon giúp doanh
nghiệp tăng trưởng xanh, hội nhập quốc tế.
Ảnh minh họa
Ở quy mô cấp vùng và cấp ngành, sau thành công của ngành lâm nghiệp khi hoàn tất chuyển nhượng 10,3 triệu tín chỉ các-bon từ rừng cho Ngân hàng Thế giới (WB) với giá 51,5 triệu USD vào năm 2020 và chương trình khí sinh học của ngành chăn nuôi Việt Nam với 60 triệu USD thu được từ bán tín chỉ các-bon (2020 – 2024), đến nay đã có hơn 300 chương trình, dự án tín chỉ các-bon được đăng ký. Trong đó bao gồm 150 dự án với 40,2 triệu tín chỉ các-bon đã đăng ký giao dịch trên thị trường quốc tế, hơn 270 dự án cơ chế phát triển sạch (CDM) được các doanh nghiệp đầu tư với khoảng 29,4 triệu tín chỉ các-bon đã được phát hành.
Từ phía doanh nghiệp, theo quan sát, hiện một số tập đoàn lớn như CT Group, Tín Thành đã tiên phong đầu tư các sàn giao dịch tín chỉ các-bon và bắt đầu thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp trong việc đăng ký giao dịch khí thải và các loại tín chỉ các-bon. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp khác như: BSB Nanotech, FPT IS, CTCP Net Zero Các-bon, Lasuco… đã bắt đầu triển khai trên thực tế việc thương mại hóa tín chỉ các-bon trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, năng lượng sạch. Trong khi đó, đại diện CTCP Mía đường Lam Sơn (Lasuco) cho hay, hiện doanh nghiệp này đã hợp tác với các đối tác Nhật Bản và 130.000 hộ nông dân trồng mía để phát triển dự án tạo ra tín chỉ các-bon ngành mía đường. Theo tính toán, số lượng các-bon Lasuco có thể thu được khi mở rộng 8.000 ha vùng nguyên liệu mía sẽ đạt khoảng 480 nghìn tấn. “Nếu bán giá thấp nhất là 1 USD/1 tín chỉ các-bon thì Lasuco cũng có thể thu về khoảng 12 tỷ đồng, bằng 10% lợi nhuận hàng năm. Số tiền này sẽ được chi trả cho nông dân, giúp nâng cao năng suất cây mía và cải thiện đời sống kinh tế”, ông Lê Văn Phương, Tổng Giám đốc Lasuco chia sẻ.
Việt Nam sẽ hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và hạ tầng kỹ thuật để giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon
Tại Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 232/QĐ-TTg phê duyệt Đề án thành lập và phát triển thị trường các-bon. Như vậy, cơ sở pháp lý để triển khai thị trường giao dịch tín chỉ các-bon các năm tới đã khá rõ ràng và có lộ trình thí điểm 3 năm trước khi chính thức vận hành trên phạm vi cả nước. Vì thế, hiện là thời điểm thích hợp để doanh nghiệp đầu tư phát triển các dự án tạo ra tín chỉ các-bon và đăng ký thương mại hóa trên các sàn giao dịch tập trung và các sàn do doanh nghiệp tư nhân xây dựng và vận hành. Tuy nhiên theo các chuyên gia, đây là một thị trường mới và rất phức tạp về kỹ thuật, thiết kế. Để điều hành, thúc đẩy thị trường phát triển, cơ quan quản lý cần có nhiều biện pháp trong đó có việc điều tiết cung – cầu thị trường; có biện pháp để các bên tạo lập thị trường tham gia đầu tư…
Ở góc độ quản lý, TS. Lưu Lê Hường, Viện Chiến lược – Chính sách Tài nguyên và Môi trường cho rằng, với Đề án 232, hệ thống giao dịch phát thải bắt buộc (ETS – áp dụng cho các doanh nghiệp có mức phát thải lớn) sẽ sớm được vận hành. Tuy nhiên song song với hệ thống này, thị trường các-bon tự nguyện (VCM) cũng cần được quan tâm thúc đẩy. Theo đó, cần có sự kết nối giữa hai thị trường với nhau để tạo ra tính linh hoạt và mở rộng cơ hội tài chính khí hậu cho các doanh nghiệp trong nước, đồng thời thiết lập cơ chế giám sát, đảm bảo tính minh bạch và nhất quán của các tín chỉ các-bon.
Trong khi đó về góc độ công nghệ, thời điểm hiện nay, các chuyên gia cũng cho rằng cơ hội đầu tư vào lĩnh vực công nghệ blockchain để mã hóa, token hóa tín chỉ các-bon cũng sẽ là “mỏ vàng” để các doanh nghiệp lĩnh vực fintech khai thác và hợp tác đầu tư. Theo đó, các mô hình áp dụng blockchain có thể áp dụng để giúp thị trường giao dịch trở nên minh bạch và dễ quản lý hơn. Song song với đó, việc mã hóa, chia nhỏ đơn vị tín chỉ các-bon cũng sẽ giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa có điều kiện tham gia nhiều hơn vào thị trường các-bon tự nguyện với mức đầu tư phù hợp với điều kiện tài chính.
An Dương, nguồn: https://vietq.vn/thi-truong-tin-chi-carbon-nhieu-doanh-nghiep-huong-ung-soi-noi-gop-phan-thuc-day-tang-truong-xanh-d230939.html, ngày 01/3/2025 (TN trích dẫn)