Tin tức

Thị trường tín chỉ các-bon Trung Quốc thúc đẩy chuyển đổi xanh

22/07/2024

Tính đến ngày 15/7/2024, giao dịch tích lũy hạn ngạch phát thải các-bon trên thị trường các-bon cả nước đã vượt 460 triệu tấn, kim ngạch giao dịch đạt gần 27 tỷ Nhân dân tệ.


Bộ Sinh thái và Môi trường Trung Quốc mới đây đã công bố số liệu cho thấy thị trường giao dịch tín chỉ các-bon của nước này đã duy trì được đà tăng trưởng mạnh, qua đó thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh và giảm khí phát thải của các doanh nghiệp. Theo Bộ Sinh thái và Môi trường Trung Quốc, tính đến ngày 15/7, khối lượng giao dịch tích lũy hạn ngạch phát thải các-bon trên thị trường các-bon cả nước đã vượt 460 triệu tấn, kim ngạch giao dịch đạt gần 27 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 3,7 tỷ USD).

Kể từ khi ra mắt thị trường các-bon cách đây 3 năm, giá chốt phiên mỗi tấn khí thải các-bon đã tăng từ hơn 40 Nhân dân tệ lên tới 90 Nhân dân tệ, giá các-bon cao nhất trong lịch sử từng vượt qua 100 Nhân dân tệ, tương đương 14 USD. Các nhà quản lý Trung Quốc nhận định các doanh nghiệp sẽ buộc phải tăng cường chuyển đổi xanh để giảm chi phí mua hạn ngạch khí thải các-bon. Bà Yu Xiang – Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc cho biết: “Giá giao dịch khí thải các-bon càng cao thì chi phí của các doanh nghiệp để mua hạn ngạch khí thải cũng càng tăng lên. Các doanh nghiệp còn dư hạn ngạch có thể thu được lợi nhuận cao hơn. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động sản xuất và kinh doanh”.
Thực tế này đang diễn ra ở nhiều nơi. Công ty năng lượng Huadian Xiangyang có trụ sở tại tỉnh Hồ Bắc đang tận dụng phế phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp, như vỏ cây và trấu, để tạo ra khí dễ cháy thông qua lò khí hóa sinh khối. Những khí này sau đó được trộn với than trong các máy phát điện đốt than. Cách làm này giúp công ty cắt giảm được 18.000 tấn than và giảm 5.000 tấn khí thải các-bon hàng năm. Ông Yang Tao – Trưởng phòng Vận hành và Bảo trì Sinh khối, công ty Huadian Xiangyang cho hay: “Việc tận dụng phế phẩm nông lâm nghiệp giúp chúng tôi tiết kiệm được tới 2 triệu Nhân dân tệ chi phí mỗi năm”.
Hiện nay, lượng khí thải các-bon của Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp trọng điểm như sản xuất điện, thép, vật liệu xây dựng, kim loại màu, hóa dầu, hóa chất, sản xuất giấy và hàng không. Lượng khí thải các-bon của các ngành này chiếm khoảng 75% tổng lượng khí thải của xã hội. Theo các chuyên gia, giá khí thải các-bon ngày càng cao sẽ buộc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có lượng phát thải lớn, phải tăng tốc quá trình đầu tư chuyển dịch sang các công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường.
Ngoài vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát thải, thị trường các-bon khổng lồ của Trung Quốc còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thị trường các-bon trên toàn thế giới. Trong khi hầu hết các thị trường các-bon khác đều nhằm mục đích giảm tổng lượng khí thải các-bon thì mục tiêu của Trung Quốc là giảm cường độ các-bon. Các chương trình thí điểm buôn bán các-bon trong khu vực của đất nước này được thành lập trong giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng về tiêu thụ kinh tế và năng lượng. Vào thời điểm đó, việc thiết lập hạn mức phát thải dựa trên lượng phát thải tuyệt đối sẽ là rất khó khăn đối với các chính phủ thí điểm, do đó, thay vào đó, hạn mức phát thải được gắn với cường độ các-bon.
Giới hạn thị trường các-bon của Trung Quốc được thiết lập bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận “từ dưới lên”. Điều này chứng kiến chính phủ đặt ra mục tiêu về cường độ các-bon (điểm chuẩn) cho các công ty liên quan. Sau đó, mỗi công ty riêng lẻ được giao nhiệm vụ sử dụng những số liệu đó để tính toán mức phát thải các-bon tuyệt đối của mình, bằng cách tham khảo sản lượng các-bon thực tế của mình. Cuối cùng, chính phủ đối chiếu các khoản trợ cấp tuyệt đối này, tổng số đó trở thành giới hạn phát thải các-bon của thị trường. Cách tiếp cận từ dưới lên này cũng đã được áp dụng ở các nền kinh tế mới nổi như Ấn Độ và Indonesia, cũng như tại các thị trường các-bon cấp tỉnh ở Canada. Sau năm 2021, thị trường các-bon của EU cũng đưa ra cách điều chỉnh định mức các-bon dựa trên cường độ các-bon trên mỗi sản phẩm, cùng với giới hạn trợ cấp tuyệt đối mà thị trường EU dựa vào đó để xây dựng.
Bên cạnh việc thiết kế thị trường, việc mở rộng thị trường các-bon khu vực của Trung Quốc để bao trùm các lĩnh vực bổ sung còn mang lại những bài học mang lại cho thị trường các-bon trên toàn cầu, đặc biệt liên quan đến việc thu thập dữ liệu và số liệu thống kê. Điều này là do thị trường khu vực của đất nước đã mở rộng kể từ khi thành lập, từ sản xuất điện và công nghiệp đến các tòa nhà công cộng, vận tải biển, giao thông công cộng và trung tâm dữ liệu. Nhiều kinh nghiệm đã được tích lũy trong quá trình thu thập dữ liệu phát thải cho các ngành công nghiệp mới. Hơn nữa, Trung Quốc đã khám phá việc mở rộng thị trường các-bon của mình ngoài lượng khí thải “phạm vi 1” để bao gồm cả lượng khí thải gián tiếp. Không giống như EU và Hoa Kỳ, thị trường điện và nhiệt của Trung Quốc vẫn đang được cải cách, có nghĩa là giá cả được điều tiết ở một mức độ nào đó. Điều này gây khó khăn cho các nhà cung cấp năng lượng trong việc chuyển chi phí các-bon sang người tiêu dùng. Do đó, thị trường các-bon của Trung Quốc bao gồm lượng phát thải ở phạm vi 2. Điều này khuyến khích các tổ chức tiết kiệm năng lượng, cuối cùng là tiết kiệm điện và nhiệt.
Ngày nay, thị trường các-bon trên toàn cầu đang bao trùm nhiều lĩnh vực và nguồn phát thải hơn, việc mở rộng thị trường này đã được thể hiện qua những kinh nghiệm này của Trung Quốc. Các thị trường các-bon của EU và Anh đã mở rộng phạm vi áp dụng sang vận tải biển, trong khi thị trường Ấn Độ, Thái Lan và Nhật Bản đang kết hợp phát thải gián tiếp.
Mô hình của Trung Quốc cho các nền kinh tế mới nổi noi theo
Còn rất ít thời gian để thế giới đáp ứng các mục tiêu của Thỏa thuận Paris, cụ thể là hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở mức 1,50C so với mức tiền công nghiệp. Năm ngoái là năm nóng kỷ lục trên toàn cầu và Tổ chức Khí tượng Thế giới đã xác nhận rằng chúng ta sắp vượt qua mức 1,50C. Do đó, phải thúc đẩy việc giảm phát thải nhanh hơn và mạnh mẽ hơn trên toàn cầu, đặc biệt là ở các nền kinh tế mới nổi. Thị trường các-bon toàn cầu có vai trò quan trọng trong quá trình này. Cần phát triển các mô hình thị trường các-bon phù hợp với các nền kinh tế mới nổi, thay vì đợi nền kinh tế của họ trưởng thành trước khi hình thành các thị trường như vậy.
Kinh nghiệm từ Trung Quốc, nền kinh tế mới nổi lớn nhất thế giới, đã được áp dụng ở nhiều thị trường các-bon mới, như Ấn Độ và Indonesia. Những thách thức mà thị trường các-bon của Trung Quốc hiện nay phải đối mặt cũng là những thách thức của một nền kinh tế mới nổi: lượng khí thải vẫn gia tăng, số liệu thống kê kinh doanh không ổn định, năng lực nhân sự còn thiếu, thị trường hóa ngành năng lượng và năng lượng còn thô sơ và hệ thống tài chính cần được cải thiện. Thị trường các-bon của Trung Quốc giúp cân bằng biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế, đồng thời có thể được sử dụng để thúc đẩy việc áp dụng công nghệ các-bon thấp. Cách họ làm như vậy sẽ cung cấp thông tin và định hình thị trường các-bon của các nền kinh tế mới nổi trên toàn thế giới và giúp thiết lập giá các-bon toàn cầu. Nguồn thu của chính phủ từ thị trường các-bon ở các nền kinh tế mới nổi cũng sẽ cho phép họ nâng cao phúc lợi công cộng và đầu tư vào các ngành công nghiệp các-bon thấp, mang lại sự phát triển kinh tế và cải thiện sinh kế theo những cách bền vững.


Quay về

THÔNG TIN LIÊN QUAN

Xem tất cả >>