Tin tức

Mức độ ảnh hưởng của thuế biên giới các-bon đến Việt Nam

13/03/2023

 Theo dự kiến của Liên minh châu Âu (EU), từ tháng 10/2023, 27 quốc gia thành viên sẽ bắt đầu thực hiện thí điểm việc đánh thuế các-bon đối với tất cả hàng hoá xuất khẩu sang thị trường này.


Theo đó, sản phẩm nào có mức độ phát thải khí nhà kính trong quy trình sản xuất vượt quá mức quy định của EU thì sẽ bị đánh thuế các-bon. Loại thuế này làm tăng thêm chi phí đáng kể đối với một số hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Như vậy, thuế biên giới các-bon sẽ khiến giá cả tăng lên, giảm tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Vậy doanh nghiệp Việt Nam cần chuẩn bị những gì để giảm thiểu tác động từ Cơ chế điều chỉnh biên giới các-bon (CBAM) hay còn gọi là thuế các-bon.

Theo ông Thomas McClelland – Phó Tổng giám đốc phụ trách Dịch vụ tư vấn thuế, Deloitte Việt Nam: “Thuế các-bon ban đầu sẽ áp dụng đối với các hàng hoá nhập khẩu có nguy cơ ô nhiễm cao như thép, xi măng, phân bón, nhôm, điện và hydro. Với trường hợp của thép, EU là thị trường nhập khẩu thép lớn thứ 2 của Việt Nam nên mặt hàng này sẽ chịu ảnh hưởng khá đáng kể”. Với phạm vi hiện tại của thuế các-bon, theo báo cáo đánh giá tác động của thuế các-bon lên 3 quốc gia bao gồm Việt Nam, Thái Lan và Ấn Độ do Ngân hàng Thế giới (World Bank) thực hiện tháng 5/2021, loại thuế này sẽ làm tăng khoảng 36 tỷ USD chi phí mỗi năm đối với 3 mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường châu Âu là thép, xi măng và nhôm. Ngoài châu Âu, Hoa Kỳ cũng dự kiến áp dụng thuế các-bon đối với một số sản phẩm nhập khẩu vào thị trường này từ 2024. Theo đó tác động của thuế các-bon đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sẽ còn lớn hơn nữa trong tương lai gần.
Ông Thomas McClelland – Phó Tổng giám đốc phụ trách
Dịch vụ tư vấn thuế, Deloitte Việt Nam
Ông Thomas McClelland cho rằng ở góc độ doanh nghiệp, những công ty sản xuất các mặt hàng nêu trên nên nhìn vào việc phát thải các-bon trong quá trình sản xuất hiện nay, cố gắng điều chỉnh giảm phát thải theo mức yêu cầu của EU. Nếu không, họ sẽ phải mua chứng chỉ các-bon, điều này sẽ làm tăng giá của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Nếu Việt Nam vẫn muốn giữ lợi thế cạnh tranh trong việc xuất khẩu cần phải tính đến các phương án sản xuất xanh, giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Thay đổi nguồn điện sử dụng trong các nhà máy thành năng lượng tái tạo như điện mặt trời cũng là một ý tưởng.
Còn ở góc độ các nhà điều hành chính sách, ông Thomas McClelland đưa ra lời khuyên rằng Việt Nam có thể cân nhắc việc tự thiết lập hệ thống mua bán tín chỉ các-bon. Như vậy, các công ty xuất khẩu thay vì mua chứng chỉ các-bon theo mức giá tại thị trường EU có thể chủ động mua ở thị trường Việt Nam. Điều này có nghĩa là khoản thuế sẽ nộp ở Việt Nam thay vì chảy sang EU. Ông cho biết, theo một nguồn tin, kế hoạch này đang được Việt Nam thảo luận để đưa ra cùng với luật bảo vệ môi trường vào năm 2028. Năm nay EU thí điểm, trong 3 năm tới là thời gian chuyển tiếp để các doanh nghiệp có thể tính toán và điều chỉnh giảm phát thải dần, nhưng đến đến 01/01/2026 là doanh nghiệp bắt buộc phải mua tín chỉ các-bon như hình thức nộp thuế. Vì vậy, Việt Nam nên thúc đẩy nhanh hơn việc thành lập hệ thống mua bán tín chỉ các-bon riêng.


Quay về

THÔNG TIN LIÊN QUAN

Xem tất cả >>